Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Tìm hiểu về hành động sắm ca nô, câu cá lớn

Tự thiết kệ bộ nhận diện thương hiệu cho mình, anh quyết định chọn cho Mai Nguyên bộ mặt sang trọng, cao cấp để tách mình khỏi số đông. Tổ chức cửa hàng bài bản, kinh doanh tốt, Mai Nguyên trở thành đại lý ủy quyền trực tiếp cho các thương hiệu Samsung, Nokia, HTC, Sony Ericsson, nhà phân phối FPT... và cả những thương hiệu cao cấp như Mobiado, Porsche Design, Bellperre.
Cầm nhà làm... ông chủ
So với người đi trước là Viễn Thông A hay người đi sau là Thế giới Di động, chuỗi cửa hàng kinh doanh điện thoại di động của Mai Nguyên chỉ là một con số nhỏ bé kiêm tốn với vỏn vẹn 4 cửa hàng.
Nhưng khi cần những chiếc điện thoại lạ và... siêu cấp, phần lớn khách hàng sẽ nghĩ ngay đến thương hiệu này. “Không tiềm lực kinh tế, không nhà đầu tư sau lưng, nếu cạnh tranh bằng quy mô, có lẽ tôi đã không trụ được trên thương trường đến giờ phút này”, anh Triều Nguyên chia sẻ về chiến lược để mình có thể tồn tại và phát triển trong một thị trường bán lẻ điện thoại di động có khá nhiều “ông lớn” như vậy.
Tập tành kinh doanh từ thủa còn mài đũng quần trên ghế Đại học Mở TP.HCM, khởi đầu bằng việc bán các thiết bị tin học như đĩa CD, linh kiện máy tính... anh cũng không biết vì sao mình lại thích công nghệ nhưng lại nặng lòng với kinh doanh. Như thể đó cũng là một nhu cầu của chính mình.
Bỏ thời gian đi nhiều, quan sát nhiều để vừa học hỏi, vừa tìm cơ hội nên khi tìm được những người bạn cùng chí hướng, anh mạnh dạn liên kết để có thể bước ra thương trường.
Ba lần hùn hạp là ba lần anh mất trắng. “Bây giờ nhìn lại, mới thấy ngày đó mình nhiệt tình nhưng thiếu hẳn tầm nhìn, lại ít chịu nghe lời người lớn, chỉ thích làm điều mình nghĩ. Thất bại đến là tất yếu”, anh cười chia sẻ.
Cũng may thất bại liên tiếp không làm anh chùn bước. Trong lần hùn hạp cuối cùng, khi nhìn thấy bạn bè quyết định rũ bỏ, anh lại ngùn ngụt quyết tâm.
Về thuyết phục gia đình cho mượn giấy tờ nhà cầm cố để có vốn làm ăn, điều anh nhận được đầu tiên là sự lo lắng từ phía thân phụ. Kiên nhẫn trình bày con đường và ước mơ của mình, anh mới có được cái gật đầu.
Với số vốn này, vừa trả cổ phần cho bạn bè, vừa sửa chữa lại mặt bằng, cửa hàng điện thoại di động Mai Nguyên, một thương hiệu mới, ghi đậm dấu ấn và quyết tâm của ông chủ trẻ chính thức đi vào hoạt động.
Người đi tránh sóng
Trong khi thương mại điện tử còn là một khái niệm xa lạ thì anh mạnh dạn lập web, giới thiệu sản phẩm. Sẵn kiến thức về công nghệ có được từ giảng đường, anh còn cung cấp dịch vụ tải phần mềm, các ứng dụng cơ bản cho điện thoại... miễn phí cho khách hàng. Trong bối cảnh những cửa hàng kinh doanh điện thoại di động còn nhỏ lẻ, nhờ những giá trị cộng thêm này mà cửa hàng thu hút được lượng khách lớn.
Mai Nguyên vươn vai từ cửa hàng lên thành một công ty theo chiều phát triển của thị trường. Lúc này, từ một cửa hàng bán cả hàng xách tay lẫn chính hãng, anh chấp nhận co cụm chỉ bán hành chính hãng để có thể kinh doanh bài bản. “Đó là một quyết định khiến tôi phải suy nghĩ nhiều nhưng tôi nghĩ dễ dãi kinh doanh thì chỉ thể tồn tại trong thời gian ngắn”, anh chia sẻ.
Vượt qua đợt sút giảm khách hàng do chuyển đổi phương thức kinh doanh, Mai Nguyên “hồi sức” thì cũng là lúc thị trường điện thoại di động bước vào đợt bùng phát. Những cái tên như Thế giới Di động, Phước Lập, Viễn Thông A... bành trướng với tốc độ phát triển cửa hàng mới chóng mặt.
Điều này dẫn đến một thực tế là các cửa hàng kinh doanh điện thoại nhỏ lẻ gần như “chết” hẳn. “Biết không thể theo nổi cuộc đua này, tôi phải chọn con đường riêng là... tránh gió to, sóng lớn”, Triều Nguyên nói.
Tự thiết kệ bộ nhận diện thương hiệu cho mình, anh quyết định chọn cho Mai Nguyên bộ mặt sang trọng, cao cấp để tách mình khỏi số đông. Tổ chức cửa hàng bài bản, kinh doanh tốt, Mai Nguyên trở thành đại lý ủy quyền trực tiếp cho các thương hiệu Samsung, Nokia, HTC, Sony Ericsson, nhà phân phối FPT... và cả những thương hiệu cao cấp như Mobiado, Porsche Design, Bellperre.
Anh cho biết, định hình ở khu vực cao cấp nên những sản phẩm “Made in Vietnam” nhưng gia công ở Trung Quốc anh đều phải từ chối. “Khách hàng đến với Mai Nguyên là những đối tượng chọn lọc, nếu ôm đồn, chạy theo số đông, tôi khó mà giữ chân được họ.
Tôi bán tất cả những dòng hàng, nhưng đó phải là hàng của các thương hiệu toàn cầu, có chất lượng”, ông chủ hệ thống đúc kết kinh nghiệm.
Chọn sâu, bỏ rộng
Đam mê công nghệ, nên Facebook của Mai Triều Nguyên anh thường “chiêu đãi” bạn bè mình những bữa tiệc công nghệ nóng sốt bằng những bài viết, hình ảnh “đập hộp” những sản phẩm mới nhất trên thị trường thế giới. Nắm được tâm lý khách hàng, anh buộc mình phải quyết định nhanh.
Sản phẩm mới, về đến Việt Nam là có mặt ngay trên hệ thống của Mai Nguyên, nhanh hơn các đơn vị bán lẻ khác từ 2 đến 3 ngày. Đây cũng chính là điều khiến Mai Nguyên trở nên khác biệt.
Trước thềm năm mới, ai cũng hào hứng với kế hoạch phát triển kinh doanh của mình, riêng với Triều Nguyên, anh bảo, mình sẽ dừng lại ở con số 4 cửa hàng, thay vì sắm thuyền to để vơ tất cả cá thì chỉ sắm ca-nô để chọn cá mà câu.
Không phải vì thiếu vốn mà vì một lần nữa, anh muốn đi theo con đường riêng của mình. “Tôi sẽ phát triển theo chiều sâu, tập trung đầu tư mang đến cho khách hàng nhưng dịch vụ, chế độ chăm sóc tốt nhất. Trong bối cảnh này, kinh doanh sự thuận tiện nhằm thỏa mãn khách hàng vẫn tốt hơn là chiều rộng”, anh khẳng định. 

Chia sẻ cùng bạn: Năm sao vẫn sáng

Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa phân khúc khách sạn 5 sao sẽ “thất sủng”. Theo ông Brett Ashton, Giám đốc Công ty Savills Việt Nam, nguồn khách du lịch MICE đã tăng mạnh trong những năm gần đây, và một số hãng du lịch tại TP.HCM đã chào đón từ 40.000 - 60.000 lượt khách dạng này trong 3 quý đầu năm 2011. Đây là lợi thế cho du lịch hạng sang.
Khách MICE cứu rỗi thị trường
KS Majestic - ảnh Q.Hòa
Năm 2009 là thời điểm kinh doanh “thất bát” nhất của khách sạn 5 sao với công suất và giá phòng giảm mạnh. Theo thống kê của Grant Thornton, công suất phòng bình quân trên mỗi khách sạn 5 sao giảm mạnh nhất, trong đó, TP.HCM để trượt vị trí quán quân vào tay Phan Thiết khi chỉ đạt 60,8%, giảm 9,8% so với năm 2008 (trong khi Phan Thiết đạt 62,4%).
Song, đáng chú ý nhất trong năm 2009 là giá phòng bình quân giảm tới 33,5%. Cũng chẳng khó để tìm ra nguyên nhân, bởi trên 60% khách lưu trú tại khách sạn 5 sao là khách kinh doanh, khách du lịch cá nhân và khách MICE. Trong khi kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ khó khăn, việc cắt giảm chi tiêu là điều không tránh khỏi.
KS Park Hyatt - ảnh Q.Hòa
Ông Thân Thành Vũ, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Bất động sản du lịch, cho rằng, nếu bỏ qua yếu tố không gian và một số dịch vụ cao cấp thì dịch vụ của phân khúc 3 - 4 sao hiện cũng chẳng kém khách sạn 5 sao.
Theo đó, không những vừa đáp ứng được nhu cầu lưu trú của khách, mà còn tiết kiệm được khoản chi phí từ 100 - 200 USD/phòng/đêm vào mùa cao điểm.
Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa phân khúc khách sạn 5 sao sẽ “thất sủng”. Theo ông Brett Ashton, Giám đốc Công ty Savills Việt Nam, nguồn khách du lịch MICE đã tăng mạnh trong những năm gần đây, và một số hãng du lịch tại TP.HCM đã chào đón từ 40.000 - 60.000 lượt khách dạng này trong 3 quý đầu năm 2011. Đây là lợi thế cho du lịch hạng sang.
Dẫn chứng từ trường hợp của khách sạn Majestic Sài Gòn, ông Nguyễn Anh Vũ, Tổng giám đốc khách sạn, cho biết, 95% khách lưu trú ở Majestic là khách quốc tế.
Ngoài lượng khách du lịch chỉ tập trung vào những tháng cuối năm thì khách MICE, khách đoàn vẫn luôn chiếm đa số. Nhờ đó, doanh thu dự kiến năm nay của Majestic ước đạt 240 tỷ đồng, vượt 15 tỷ đồng so với chỉ tiêu.
Cũng theo ông Vũ, tùy vào từng thời điểm, doanh nghiệp nên xem xét việc đặt lợi nhuận kỳ vọng cho vấn đề kinh doanh. Nếu thị trường không tốt mà kỳ vọng quá cao thì thất vọng là điều hiển nhiên.
KS Caravelle - ảnh Q.Hòa
Với tình hình kinh tế như năm 2011, doanh thu trung bình của các khách sạn 5 sao ở những tháng thấp điểm, thường dao động trung bình từ 12 - 13 tỷ đồng/tháng và từ 22 - 25 tỷ đồng/tháng ở giai đoạn cao điểm. Trong khi đó, ở thời điểm tốt, những con số này có thể tăng gần gấp đôi.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng giám đốc Berjaya Việt Nam (thuộc Tập đoàn Berjaya Bhd, Malaysia đang nắm giữ 70% cổ phần tại 2 khách sạn 5 sao Sheraton và Inter Continental Hà Nội) nhận xét, công suất phòng năm nay sẽ “không như mong đợi”.
Tuy nhiên, theo ông Nam, đầu tư những sản phẩm cao cấp mang tính dài hạn nên với những công trình có vị trí tốt sẽ không gặp mấy khó khăn khi thị trường khởi sắc. Hầu hết các dự án khách sạn mới hoặc mở rộng, nâng cấp đều đã được đặt ra từ khoảng 3-5 năm trước.
Thêm một lần cộng 3-5 năm
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, lượng khách quốc tế đến Việt Nam 11 tháng đầu năm 2011 đạt 5,4 triệu lượt, tăng 17,8% so với năm cùng kỳ năm 2010. Trong đó, lượng khách kinh doanh, đối tượng chính của khách sạn 5 sao, chiếm 16%, tăng 17,5%.
Đánh giá về tiềm năng của thị trường du lịch, nghỉ dưỡng Việt Nam, ông Thomas Schmelter, Tổng giám đốc điều hành khách sạn InterContinental khu vực Việt Nam và Campuchia (thuộc Tập đoàn quản lý và điều hành khách sạn InterContinental Hotels Group, IHG), cho rằng, Đông Dương là thị trường chiến lược của IHG, trong đó, Việt Nam là thị trường trọng điểm.
Với những ưu đãi về mặt thiên nhiên, Việt Nam đã tạo ra cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, năm 2010, Quảng Nam và Đà Nẵng đã đón nhận lần lượt 1,23 triệu - 1,77 triệu khách du lịch trong khu vực.
Hơn nữa, Việt Nam đã mở các đường bay trực tiếp từ một số thị trường quốc tế tiềm năng nối các điểm du lịch trong nước. Vietnam Airlines cũng đã mở đường bay trực tiếp (2 chuyến/tuần) từ Gatwick (Anh) đến TP.HCM.
“Với cải thiện điều kiện hạ tầng này, IHG tin tưởng, Việt Nam sẽ là trung tâm thu hút du khách quốc tế trong tương lai rất gần”, ông Thomas Schmelter nhấn mạnh.
KS New World - ảnh Q.Hòa
Theo tiết lộ từ đại diện của IHG, đến hết năm nay, IHG sẽ quản lý 6 khách sạn và khu nghỉ dưỡng cao cấp, chủ yếu tập trung ở những thành phố lớn như: Đà Nẵng, Nha Trang, Hà Nội và TP.HCM, với công suất đạt 2.270 phòng.
Đó là chưa kể đến 3 hợp đồng quản lý mới mà IHG vừa ký với các đối tác tại Cam Ranh - Nha Trang, Đà Nẵng Beach Resort và đảo Phú Quốc. “Trong vòng 3 - 5 năm tới, Việt Nam vẫn là thị trường quan trọng với nhà quản lý này. Vì đây sẽ là thị trường trung chuyển giữa Trung Quốc, Nhật Bản, và Mỹ”, ông Thomas Schmelter nhìn nhận.
Còn ông Nguyễn Anh Vũ thì cho biết, có thể 1 - 2 năm nữa, nguồn cung về khách sạn 5 sao sẽ tạm ổn nhưng tương lai sẽ thiếu. Do đó, để hoạt động kinh doanh tốt, ngoài chiến lược giá, các đơn vị quản lý phải chú trọng vấn đề nâng cấp dịch vụ và cải thiện hình ảnh quảng bá.
Trong khi đó, phía Norfolk Group lại cho rằng, để phát triển tốt khách sạn 5 sao, ngoài yếu tố vị trí và tiện nghi sang trọng, khách sạn cần có một chiến lược kinh doanh tốt và mang tính lâu dài... 

Giới thiệu về vấn đề: Sóng ở trên cao

Thực tế là trong thời gian qua, dù dịch vụ, phòng ốc tại đây tốt, nhưng doanh thu của Celadon Palace không đạt yêu cầu. Lý do là ngoài việc chuộng các resort gần biển, khách du lịch thường chọn khách sạn 2 - 3 sao trong thành phố vì thời gian lưu trú trong khách sạn của họ thấp. Trong khi đó, chỉ riêng tại thành phố Huế đã có tới 3 khách sạn 5 sao là Celadon, Imperial Huế và La Residence.
Cú hích VinaCapital
Ảnh Q.Hòa
Ông Ken Atkinson, Giám đốc Điều hành Grant Thornton Việt Nam, nhận định, trong vòng 2 năm tới, 42,6% khách sạn được khảo sát cho biết đang có kế hoạch mở rộng và cải thiện tiện nghi.
Tháng 10 vừa rồi, Tập đoàn VinaCapital “úp mở” tỷ lệ sở hữu tại khách sạn 5 sao Legend (đường Tôn Đức Thắng, Q.1, TP.HCM). Dù không tiết lộ chi tiết, nhưng ông Andy Ho, Giám đốc Bộ phận Đầu tư VinaCapital nói “nửa đùa, nửa thật” rằng, số cổ phần VinaCapital nắm giữ vừa đủ để có thể tham gia quyết định.
Đây không phải là lần đầu tiên VinaCapital tham gia vào đầu tư khách sạn 5 sao. Nếu tính danh mục đầu tư của VOF (Vietnam Opportunities Fund), VinaLand (VNI) lẫn Công ty Quản lý dự án VinaProjects thì VinaCapital đang sở hữu cổ phần tại 3 khách sạn 5 sao khác ở Hà Nội, TP.HCM và Nha Trang.
Trong thời điểm từ 2007 - 2009, VinaCapital thực hiện khá nhiều thương vụ mua lại cổ phần trong các khách sạn từ 4 - 5 sao. “Điểm sáng” trong đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng của VinaCapital là việc bán lại toàn bộ 70% cổ phần tại khách sạn Hilton Hà Nội Opera vào năm 2009 và đạt tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) 23%.
Theo ông Andy Ho, một khoản đầu tư khả thi khi mức tăng trưởng lợi nhuận của nó phải đạt từ 15% trở lên . Như vậy, sau khi thoái vốn khỏi dự án này, VinaCapital vẫn còn giữ lại khoản đầu tư khách sạn 5 sao là Sofitel Metropole Hà Nội.
Không lâu sau VinaCapital, thị trường “dậy sóng” khi Berjaya Việt Nam tuyên bố mua lại 70% cổ phần của khách sạn InterContinental và Sheraton (Hà Nội).
Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng giám đốc Berjaya Việt Nam, cho biết cách đây một năm, Berjaya có ý định bán bớt một khách sạn ở Hà Nội để mua lại một khách sạn 5 sao khác tại TP.HCM, bởi đây là thị trường năng động trong thu hút đầu tư và khách du lịch quốc tế. Do đó, việc sở hữu một khách sạn hạng sang ở đây là chiến lược mà nhà đầu tư Malaysia này luôn hướng đến.
Tuy nhiên, sẽ không có mức giá tốt ở thời điểm này, nên Berjaya tạm ngưng thực hiện thương vụ.
Không chịu thua kém các nhà đầu tư ngoại, ngành khách sạn chứng kiến sự nổi dậy của doanh nghiệp nội, với hàng loạt những dự án nâng cấp, xây mới khách sạn 5 sao.
Mạnh mẽ nhất có thể kể đến Tổng công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist). Cụ thể, tháng 10/2010, Saigontourist “khai tử” khách sạn 3 sao Metropole (số 148 Trần Hưng Đạo, Q.1, TP.HCM) để đầu tư 60 triệu USD xây dựng khách sạn Pullman Saigon Centre, với đầy đủ các hạng mục, gồm: 24 tầng khách sạn (300 phòng ngủ, phòng hội thảo và khu vực trò chơi có thưởng.
Dự kiến, dự án này sẽ đi vào hoạt động trong năm 2013. Khách sạn Rex được đầu tư hơn 300 tỷ đồng để xây dựng khu mới, nâng chất lượng phục vụ thành 5 sao...
Trong năm nay, thành viên của Saigontourist là Majestic cũng triển khai khách sạn Majestic mở rộng. Như vậy, nếu cộng cả số phòng của khách sạn Majestic hiện hữu lẫn mới, công suất phòng của công trình này sẽ lên đến con số 550.
Ông Nguyễn Anh Vũ, Tổng giám đốc Khách sạn Majestic cho biết, việc mở rộng này là hoạt động nằm trong chiến lược trở thành tập đoàn lữ hàng đầu khu vực của Saigontourist đến 2020 với doanh số 1 tỷ USD.
Hiệu ứng 2015
Liên quan đến nguồn cung khách sạn cao cấp, thống kê của CBRE Việt Nam trước đây, cho thấy, tại thời điểm năm 2000, TP.HCM chỉ có 5 khách sạn hạng sang.
Con số này đến năm 2005 tăng gấp đôi, nhưng đến 2008 lại không có nhiều biến động, với khoảng 4.000 phòng. Tuy nhiên, năm nay, số lượng phòng khách sạn 5 sao đã tăng đột biến với gần 5.000 phòng và năm sau dự kiến sẽ có gần 1.000 phòng nữa đi vào hoạt động.
Sự khác biệt trong phân khúc này nếu có là chất lượng dịch vụ, mức giá và vị trí xây dựng. Cụ thể, hiện nay địa điểm của khách sạn 5 sao tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm, còn trong tương lai, dự án sẽ chuyển dịch sang Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Nam Sài Gòn và khu vực sân bay Tân Sơn Nhất.
Trong khi các khách sạn 5 sao tại TP.HCM, Hà Nội “ung dung ăn nên làm ra”, thì đang có chút khó khăn ở khu vực khác. Đầu tháng tháng 11, ngay tại trung tâm thành phố Huế, khách sạn Celadon Palace, một trong những khách sạn 5 sao sang trọng nhất tại đây tổ chức làm lễ đổi thương hiệu thành Indochine Palace.
Ông Matthias Wiesmann, Tổng giám đốc khách sạn cho biết, việc đổi tên là do chủ đầu tư quyết định khi hợp tác với nhà quản lý mới là tập đoàn Best Western Premier. Đây là tập đoàn lớn của Mỹ đang quản lý khoảng 4.000 khách sạn trên thế giới. Giám đốc một công ty du lịch lữ hành tại Huế cho rằng, việc chuyển đổi tên của Celadon Palace là việc cần phải làm, dù khách sạn này mới hoạt động được 2 năm.
Thực tế là trong thời gian qua, dù dịch vụ, phòng ốc tại đây tốt, nhưng doanh thu của Celadon Palace không đạt yêu cầu. Lý do là ngoài việc chuộng các resort gần biển, khách du lịch thường chọn khách sạn 2 - 3 sao trong thành phố vì thời gian lưu trú trong khách sạn của họ thấp. Trong khi đó, chỉ riêng tại thành phố Huế đã có tới 3 khách sạn 5 sao là Celadon, Imperial Huế và La Residence.
Ông Ken Atkinson, Giám đốc Điều hành Grant Thornton Việt Nam cũng cho rằng, ở một vài khu vực có hiện tượng thừa cung, chẳng hạn như Đà Nẵng, Hội An, Huế, Nha Trang và thậm chí cả Hà Nội cũng như TP.HCM.
Thị trường luôn hoạt động theo chu kỳ. Theo đó, các nhà phát triển sẽ đẩy mạnh xây dựng khi thị trường lên và ngược lại. Hầu hết những dự án hiện nay đều được phát triển khi thị trường còn tốt; trong khi từ 2012 đến một vài năm sau đó, nguồn cung mới có thể bị hạn chế, ông Ken Atkinson nói.
Vậy, với hiện tượng nhiều dự án khách sạn 5 sao sắp thành hình, liệu có làm ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà quản lý trong việc tạo ra doanh thu cho khách sạn?
Ông Ken Atkinson cho rằng, đây không còn là hiện tượng mới, dựa trên những dự đoán về thị trường hiện nay, có vẻ như nguồn cung của khách sạn 5 sao đã vượt. Điều này có nghĩa, tỷ lệ lấp đầy sẽ thấp hơn, giá phòng bình quân sẽ giảm. Đồng thời, để chiếm được thị phần, những khách sạn mới có thể sẽ đưa ra một mức giá hợp lý hơn.
Trở lại với trường hợp của khách sạn Majestic, việc mở rộng khách sạn thứ hai không xuất phát từ việc đáp ứng công suất phòng. “Ở những thời điểm kinh tế khó khăn, nhu cầu giảm thì khách sạn càng sang lại càng dễ... lỗ. Bởi, để lấp đầy, nhà quản lý và phát triển buộc phải đưa mức giá thấp nhằm đảm bảo doanh thu.
Do đó, điểm rơi của thị trường có thể bắt đầu từ năm 2015, nhu cầu khách sạn 5 sao sẽ tương ứng với nguồn cầu”, ông Nguyễn Anh Vũ, Tổng giám đốc Khách sạn Majestic dự đoán. 
VinaCapital là nhà quản lý quỹ sở hữu cổ phần tại 4 khách sạn 5 sao, cùng nhiều khu nghỉ dưỡng cao cấp khác tại Việt Nam:
• Khách sạn 5 sao Sofitel Metropole Hà Nội: với tổng giá trị tài sản là 49,5 triệu USD (Ngày 30/6/2008, VinaCapital nắm giữ 72,2% cổ phần trong Indotel Limited, một trong những chủ đầu tư của khách sạn 5 sao S.E.M Thống Nhất Hotel Metropole. Ngày 4/9/2008, VinaCapital giành hơn 27,8% cổ phần của công ty này)
• VOF đầu tư 46,9 triệu USD, tương đương 23% vào khách sạn Sheraton Nha Trang. 
• Năm 2006, VinaCapital mua lại 70% cổ phần tại khách sạn Hilton Opera Hà Nội, sau 3 năm, VinaCapital bán lại toàn bộ cổ phần này và thu về lợi nhuận 23%. 
• Ngoài ra, năm 2007, thông qua Vina Hospitality, thuộc VinaCapital, cũng đã mua lại 52,5% cổ phần từ Công ty A-1 International (Việt Nam), tương đương 16,7 triệu USD từ khách sạn Omni (nay là Movenpick Saigon) để nâng cấp thành khách sạn 5 sao. 
Trong khi đó, một số nhà đầu tư trong nước cũng đang tham gia đầu tư khách sạn 5 sao: Saigontourist tham gia đầu tư trực tiếp (cũng như dưới hình thức liên doanh) 5 khách sạn 5 sao tại TP.HCM: Caravelle, Majestic, Rex, Pullman Sài Gòn Centre và Sheraton Sài Gòn; Kinh Đô Land (thuộc Tập đoàn Kinh Đô) cũng tham gia đầu tư khách sạn Sheraton Nha Trang...

Cùng tìm hiểu về câu chuyện của vua tôm


Vì sao Minh Phú làm được điều này? “Minh Phú luôn mua tôm theo giá thị trường, không cao hơn, không thấp hơn. Văn hóa này đã tạo dựng được trong mười mấy năm qua. Điều này đã tạo cho những người nuôi tôm hay thương lái suy nghĩ giá của Minh Phú là giá thị trường. Do đó, nguồn tôm nguyên liệu luôn được bán cho Minh Phú”, ông Quang cho biết.
Tham vọng của “vua tôm” Lê Văn Quang có lẽ chưa dừng lại ở vị trí dẫn đầu thị trường xuất khẩu tôm Việt Nam, khi ông đã và đang hoạch định những chiến lược lâu dài hơn.  
Tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của Minh Phú 
Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Thủy sản Minh Phú.
Giữa năm 2009, khi tình hình kinh tế còn đang quay cuồng bởi dư chấn của khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì vẫn có những ông chủ doanh nghiệp đã lên kế hoạch phát triển cho thời hậu khủng hoảng. Một trong những nhân vật đó là Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ Phần Thủy sản Minh Phú, mà người dân Cà Mau vẫn quen gọi là Quang “Sú”, cái tên gắn liền với nghề chế biến tôm sú của ông.

Tháng 8/2009, một nhà máy chế biến tôm, được xem là lớn nhất trong ngành với vốn đầu tư lên đến 405 tỉ đồng, đã được khởi công ở Khu Công nghiệp Sông Hậu, huyện Châu Thành, Hậu Giang. Đó là nhà máy chế biến tôm sú thứ tư của Công ty Minh phú, nơi ông Quang và gia đình nắm giữ đến 80% cổ phần. Lúc đó, ông Quang cho rằng, việc mở rộng đầu tư nhà máy là hợp lý. Khi nhà máy này đi vào hoạt động vào năm 2011, kinh tế thế giới chắc đã phát triển ổn định trở lại và nhu cầu nhập khẩu cũng sẽ tăng.

Thế nhưng, kinh tế thế giới vẫn còn nhiều bất ổn, dù năm 2011 đã sắp trôi qua. Dự đoán của ông Quang về thời điểm kinh tế phục hồi có thể chưa đúng, nhưng tầm nhìn chiến lược của ông thì khó có thể phủ nhận. Dù chỉ mới đi vào hoạt động bước đầu từ tháng 7 vừa qua và chưa mang lại lợi nhuận trong năm nay vì phải trả lãi vay vốn đầu tư, nhưng nhà máy Minh Phú Hậu Giang cũng mang lại 50 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. “Năm 2012, nhà máy sẽ mang lại không dưới 300 triệu USD kim ngạch xuất khẩu và 500 tỉ đồng lợi nhuận sau thuế”, ông Quang cho biết.

Đường đến ngôi số 1

Xuất thân là kỹ sư nuôi tôm làm trong doanh nghiệp nhà nước, nhưng với những cơ chế còn nhiều ràng buộc, Lê Văn Quang quyết định rẽ sang con đường riêng: làm đại lý thu mua tôm cho một doanh nghiệp tư nhân. Đó là vào năm 1988.

Thời điểm đó, phần lớn doanh nghiệp nhà nước đều phải mua tôm theo giá quy định của Bộ Thủy sản. Chẳng hạn, tôm thẻ loại từ 41-90 con/kg mua đồng giá 8.000 đồng/kg. Ông nhận ra rằng từ loại tôm nguyên liệu này có thể chế biến tôm thành phẩm (còn vỏ, bỏ đầu) với 5 cỡ khác nhau, mỗi cỡ giá bán chênh nhau 1 USD. Vậy là ông quyết định chỉ mua tôm cỡ 41-60 con/kg với giá 10.000 đồng/kg. Người dân vui vẻ lựa tôm cỡ này bán cho ông, phần còn lại (từ 61-90 con/kg) họ mang bán cho công ty quốc doanh. Đương nhiên khi ra thành phẩm, cỡ tôm của ông bán cao hơn mấy USD/kg. Và Lê Văn Quang đi lên từ những kinh nghiệm thương trường như vậy.

Đến năm 1992, Xí nghiệp Chế biến Cung ứng hàng xuất khẩu Thủy hải sản Minh Phú đã được thành lập với số vốn khởi điểm 120 triệu đồng, với hoạt động chính là thu mua, chế biến thủy hải sản cung cấp cho các đơn vị trong tỉnh.

Cũng từ đó, Minh Phú đã không ngừng gia tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Từ năm 1998 đến năm 2000, Minh Phú đã tăng vốn liên tục, nâng vốn điều lệ từ 120 triệu đồng lên 79,6 tỉ đồng; tốc độ tăng vốn, theo ông Quang, là thuộc hàng kỷ lục khi đó. Hiện nay vốn điều lệ của Minh Phú đã là 700 tỉ đồng.

Điều đặc biệt của Minh Phú là tăng vốn từ nguồn vốn tự có, từ lợi nhuận được giữ lại. Ông Quang kể lại, trong thời gian này tiền nhàn rỗi của Minh Phú rất dồi dào. Công ty dùng số tiền này gửi tiết kiệm và dùng chính sổ tiết kiệm đó để thế chấp ngân hàng vay vốn lưu động. Minh Phú vừa được hưởng lãi suất tiết kiệm, vừa được hưởng lãi suất vay ưu đãi. Thậm chí lãi suất của khoản vay này thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm tới 2 điểm phần trăm/năm.

Năm 2006 cũng đánh dấu nhiều bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của Minh Phú. Đó là năm đầu tiên Minh Phú thực hiện quy trình nuôi trồng và sản xuất khép kín, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 133 triệu USD, lợi nhuận sau thuế gần 109 tỉ đồng, dẫn đầu về xuất khẩu tôm cả nước. Cuối năm đó, Minh Phú chính thức lên sàn chứng khoán và cổ phiếu MPC của Minh Phú nhanh chóng được giới đầu tư nhắm đến. Giá cổ phiếu của MPC cuối năm 2006 đã lên đến hơn 72.000 đồng/cổ phiếu.
Từ thất bại của vua tôm…

Với 247 triệu USD kim ngạch xuất khẩu trong tổng kim ngạch gần 2,1 tỉ USD của Việt Nam năm 2010, tương đương gần 12% thị phần, chưa có doanh nghiệp nào thay thế được vị trí dẫn đầu của Minh Phú trên thị trường vốn khá phân tán này. Ông chủ Lê Văn Quang, được mệnh danh “vua tôm”, cũng là người giàu thứ 38 trên sàn chứng khoán Việt Nam với tài sản trên 477 tỉ đồng. Mới đây, ông Quang là 1 trong 5 doanh nhân lọt vào vòng cuối cùng của Giải thưởng Ernst & Young - Bản lĩnh Doanh nhân Lập nghiệp 2011, một giải thưởng quốc tế được tổ chức tại hơn 50 quốc gia.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa ông Quang chưa từng thất bại. Giống như nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác trong thời hưng thịnh của chứng khoán năm 2006, 2007, ông cũng bị sa vào những phi vụ đầu tư tài chính. Thế nhưng, cơn bão tài chính toàn cầu đã làm khối tài sản của nhiều doanh nghiệp bốc hơi và trong đó có Minh Phú.

Một sai lầm khác của ông Quang là khoản đầu tư 200 tỉ đồng vào Quỹ Tầm Nhìn SSI, quỹ đầu tư chứng khoán do SSI quản lý. Khoản đầu tư này, theo ông Quang, là chưa thu được đồng lãi nào nhưng mỗi năm phải trích lập dự phòng tài chính lên đến hơn 50 tỉ đồng. Và ông đang tìm cách thoát ra sao cho ít thiệt hại nhất.

Sai lầm đó, ông Quang cho biết, là do áp lực từ nhiều phía nói rằng làm tôm không bao giờ giàu nhanh, chỉ có đầu tư tài chính mới có thể gia tăng tài sản lên nhiều lần. “Làm công việc mình không thích và bị chi phối bởi phong trào, đó là sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi đã học được một bài học quý: không nên làm những gì mình không thích, không hiểu sâu sắc”, ông nói.
…đến chiến lược phát triển bền vững

Lê Văn Quang hiểu rõ con tôm nhất, do đó hiện tại ông chỉ tập trung cho con tôm. Và không chỉ phát triển đơn thuần, chiến lược của ông là phải phát triển một cách bền vững. Điều này thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực từ nhân sự, nguồn nguyên liệu cho đến công nghệ chế biến.

Thiếu nguyên liệu là căn bệnh trầm kha của nhiều doanh nghiệp chế biến tôm. Tuy nhiên, điều này dường như không xảy ra với Minh Phú khi công ty này phải thường xuyên tăng ca.

Vì sao Minh Phú làm được điều này? “Minh Phú luôn mua tôm theo giá thị trường, không cao hơn, không thấp hơn. Văn hóa này đã tạo dựng được trong mười mấy năm qua. Điều này đã tạo cho những người nuôi tôm hay thương lái suy nghĩ giá của Minh Phú là giá thị trường. Do đó, nguồn tôm nguyên liệu luôn được bán cho Minh Phú”, ông Quang cho biết.

Không chỉ tạo ra một chính sách thu mua ổn định, kể từ năm 2006, Minh Phú thử nghiệm tự nuôi tôm theo công nghệ mới và dần dần tự xây dựng một quy trình công nghệ hiện đại. Minh Phú là doanh nghiệp thủy sản đầu tiên trong nước được công nhận tiêu chuẩn Global GAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn toàn cầu) về nuôi và chế biến tôm xuất khẩu. Hiện tại, Minh Phú đã chủ động được 20% nguồn nguyên liệu. Chiến lược trong 5 năm tới của Minh Phú là phát triển lên khoảng 5.000 ha nuôi tôm, đáp ứng 70% nhu cầu tôm của Minh Phú. “Minh Phú có thể vươn đến chủ động hoàn toàn nguồn nguyên liệu, nhưng quan điểm của tôi là không phát triển quá nóng, mà tăng trưởng phải kiểm soát được”, ông nói.

Ngoài nguồn nguyên liệu, vị trí dẫn đầu thị trường tôm xuất khẩu của Minh Phú còn đến từ công nghệ chế biến. Cụ thể là nhà máy thứ tư của Minh Phú tại Hậu Giang. Với công nghệ tiên tiến, nhà máy mới đã giảm thiểu được hao hụt nguyên liệu và tăng năng suất. Sau hơn 1 tháng chạy thử, hiệu quả của nhà máy Minh Phú Hậu Giang hơn hẳn nhà máy Minh Phú Cà Mau, lợi nhuận tăng thêm 5.000-10.000 đồng/kg tôm thành phẩm. Nhà máy này cũng tiết kiệm được 40% năng lượng điện, tiết kiệm được nhân công.
Tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của Minh Phú
Nhân công cũng chính là bài toán khó đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu, do tình trạng “nhảy việc” rất phổ biến. Tuy nhiên, điều này hiếm khi xảy ra với Minh Phú, bởi ông chủ Lê Văn Quang có những chính sách giữ nhân công mà không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.

Đầu tiên là lương bổng. Hiện tại, mặt bằng lương ở Cà Mau, Cần Thơ chỉ khoảng 2 triệu đồng/tháng. Nhưng ở Minh Phú lương thử việc 2 tháng đầu tiên đã là 2,5 triệu đồng/tháng; từ tháng thứ ba trở đi ăn lương sản phẩm trên 3 triệu/tháng, người làm giỏi có thể đạt tới 4,5-5,5 triệu.

Chính sách thứ hai là nhà ở cho công nhân. Cụ thể, hai vợ chồng công nhân sẽ được cấp một căn hộ 30-50 m2; quản đốc, tổ trưởng được cấp căn hộ 50-100m2; từ phó giám đốc trở lên thì nhà có diện tích 100 -200 m2; phó tổng giám đốc là biệt thự.

Chính sách thứ ba là đào tạo nguồn nhân lực kế thừa. Con em của cán bộ công nhân viên học giỏi, có cam kết làm lâu dài tại Minh Phú sẽ được chi trả toàn phần hoặc bán phần, kể cả học trong nước lẫn nước ngoài.

Và nhân lực cũng sẽ là vấn đề Minh Phú phải đầu tư mạnh nhất, khi nhà máy Minh Phú Hậu Giang sắp hoạt động chính thức. Nếu hoạt động hết công suất, Minh Phú có thể cung cấp 70.000 tấn tôm thành phẩm/năm, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu thị trường.

“Chỉ khi người Mỹ không ăn tôm nữa thì mới không mua sản phẩm của Minh Phú. Mà kể cả khi người Mỹ không mua tôm của Minh Phú đi nữa thì các thị trường còn lại sẽ tiêu thụ hết”. Và có lẽ ông Quang cũng nhận ra rằng, chơi với con tôm tuy không giàu nhanh, nhưng đó là làm giàu bền vững.

“Minh Phú luôn mua tôm theo giá thị trường, không cao hơn, không thấp hơn. Điều này đã tạo cho những người nuôi tôm hay thương lái suy nghĩ giá của Minh Phú là giá thị trường. Do đó, nguồn tôm nguyên liệu luôn được bán cho Minh Phú”. 

Chia sẻ cùng bạn kinh nghiệm: Dù có thiên thời cũng cần thức thời

Tuy nhiên, một câu nói vui của không ít nhà đầu tư trong nước cũng đáng để lưu ý: “Nên gọi Khu công nghệ cao TP.HCM thành... KCN cao, mới là chính xác”! Điều này thể hiện khá rõ trong giai đoạn một của dự án. Nhiều tập đoàn quốc tế khá có tên tuổi đã đến đây xây dựng nhà máy. Nhưng sản phẩm tạo ra được dán mác công nghệ cao lại quá đơn giản.
Đón sóng đầu tư
Hoạt động sản xuất tại Công ty TNHH Sinh học Dược Nanogen, Khu công nghệ cao TP.HCM
Ông Robert Johnston, Phó giám đốc Cushman & Wakefield Publication, đưa ra một cái nhìn tổng quan về các khu chế xuất, KCN tại TP.HCM. Robert khẳng định, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập năm 1991 là mô hình thành công nhất tính đến thời điểm hiện nay.
Từ đây, bắt đầu giai đoạn 1992-1998, có hơn 10 KCN được thành lập. Tới năm 2008, có 15 KCN hoạt động cung cấp 2.475ha đất công nghiệp.
Và mới đây, Bộ Xây dựng thông qua kế hoạch phát triển 5 KCN mới ở TP.HCM là KCN Đông Nam (338ha), KCN Hiệp Phước (200ha), Bàu Hưng IP (175ha), Vĩnh Lộc 3 IP (300ha) và KCN Tân Thới Thượng (200ha).
Hiện nay, các KCN của TP.HCM chủ yếu tập trung ở các quận phía Tây như Bình Tân, Bình Chánh, Tân Bình, Hóc Môn và Củ Chi, do quỹ đất lớn.
Đa số các KCN ở TP.HCM đều ưu tiên cho ngành cơ khí, điện tử, viễn thông, dược mỹ phẩm và chế biến thức ăn. Trong 5 năm tới, có khoảng 2 - 3 tỷ USD đầu tư vào lĩnh vực sản xuất này.
Giá thuê đất KCN tại TP.HCM đã tăng trong những năm gần đây. Từ năm 2007, giá thuê đã tăng trung bình 30%/ năm, đặc biệt là những KCN gần trung tâm.
Phó giám đốc của Cushman & Wakefield Publication đưa ra dự báo, trong quý IV/2011 giá thuê sẽ ổn định ở KCN cũ, vốn gần như đã lấp đầy. Tuy nhiên, những KCN mới thành lập sẽ giảm giá thuê để cạnh tranh. Đến năm 2020, sẽ có khoảng 12 KCN mới cung cấp cho thị trường.
Khi so sánh các KCN Việt Nam với các nước trong khu vực, cụ thể là Thái Lan, các nhà đầu tư thường không chọn KCN Việt Nam. Các KCN Thái Lan có giá rẻ, khoảng 10 USD/m2, có cơ sở hạ tầng tốt và công nhân có tay nghề cao.
Tuy nhiên, trong tình hình mới có thay đổi do những bất ổn về chính trị và thiên tai của Thái Lan, KCN Việt Nam sẽ là điểm đến của nhiều nhà đầu tư.
Nhưng phía Cushman & Wakefield Publication cũng nhấn mạnh, trong thời gian tới, việc thu hút đầu tư vào KCN sẽ đối mặt với những thách thức về cơ sở hạ tầng, đất đai chưa sẵn sàng trong khi làn sóng đầu tư từ Nhật, từ Trung Quốc đang hướng về Việt Nam. Cộng vào đó là sự cạnh tranh gay gắt từ các KCN các nước trong khu vực: Malaysia, Trung Quốc, Indonesia, Philipines.
Khu công nghiệp cao?
Thông tin từ Ban Quản lý Khu công nghệ cao TP.HCM (SHTP), trong tổng giá trị xuất khẩu lũy kế hơn 1,4 tỷ USD của cả khu, thì giá trị xuất khẩu lũy kế của Intel (đến tháng 10/2011) vào khoảng 500 triệu USD, trong đó giá trị xuất của Intel năm 2010 là 120 triệu USD. Như vậy, cùng với số lượng dự án đầu tư, giá trị đầu tư tại đây cũng đã dần được khẳng định.
Theo ông Lê Hoài Quốc, Trưởng ban Quản lý SHTP, hiện nay toàn khu đã lấp đầy 95% đất giai đoạn một. Toàn bộ dự án có diện tích trên 913ha, giai đoạn 1 triển khai trên 326ha, giai đoạn 2 triển khai trên 587ha từ năm 2011 -2015.
Trung bình mỗi năm, SHTP tiếp xúc hơn 100 nhà đầu tư. Đến 9/2011, Ban quản lý đã cấp 55 giấy chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đầu tư lên đên trên 2,037 tỷ USD.
Ông Lê Hoài Quốc cho biết, SHTP hiện tập trung thu hút đầu tư các dự án công nghệ cao thuôc 4 lĩnh vực chính: vi điện tử, công nghệ thông tin - viễn thông; cơ khí chính xác - tự động hóa và chế tạo robot; công nghệ sinh học ứng dụng vào bào chế thuốc và xử lý môi trường; vật liệu mới, năng lượng mới và công nghệ nano...
Ngoài 10 dự án đã được nhận giấy chứng nhận đâu tư trong năm 2011, SHTP đang thẩm định từ 6 - 7 dự án. Theo đánh giá của giới đầu tư, SHTP là một trong những khu công nghệ có gói ưu đãi về thuế và giá thuê đất cạnh tranh so với các KCNC trong khu vực và thế giới.
Cụ thể, thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong vòng 15 năm, trong đó 4 năm đầu kể từ năm đầu tiên có lãi thuế suất là 0%, 9 năm tiếp theo 5% và 2 năm còn lại 10%...
Tuy nhiên, một câu nói vui của không ít nhà đầu tư trong nước cũng đáng để lưu ý: “Nên gọi Khu công nghệ cao TP.HCM thành... KCN cao, mới là chính xác”! Điều này thể hiện khá rõ trong giai đoạn một của dự án. Nhiều tập đoàn quốc tế khá có tên tuổi đã đến đây xây dựng nhà máy. Nhưng sản phẩm tạo ra được dán mác công nghệ cao lại quá đơn giản.
Đơn cử như tập đoàn Nidec, một trong những sản phẩm chính được sản xuất ra là… quạt máy dùng cho ô tô và CP máy tính. Chưa kể, có một lượng lớn lao động của nhà máy chỉ mới học hết cấp 2.
Trong khi đó, theo quy định, các dự án tại SHTP phải dành ít nhất 1% doanh số và 5% trong tổng lao động cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
Tuy nhiên, hàm lượng R&D (bao gồm suất đầu tư cho R&D, tỷ lệ nhân sự làm R&D...) đến nay vẫn chưa thể hiện rõ trong sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp và có ít nhà đầu tư triển khai thực hiện theo cam kết ban đầu.
Doanh nghiệp Nhật Bản, đặc biệt là doanh nghiệp công nghệ cao đang hướng vào Việt Nam. Nhưng một nguồn tin đáng để SHTP lưu ý: Tập đoàn Sojitz, Daiwa House và Công ty Kobelco Eco-Solutions (thuộc Kobe Steel Group) sẽ cùng nhau xây dựng KCN Long Đức (huyện Long Thành, Đồng Nai) trên diện tích 270ha với tổng kinh phí đầu tư 100 triệu USD. Như vậy, TP.HCM đang chịu sự cạnh tranh của chính các tỉnh về KCN cao.
 

Chia sẻ với bạn về CEO StoxPlus: ‘Khủng hoảng là cơ hội chơi lại ván cờ'

Hợp đồng đầu tiên trong những ngày “hàn vi” năm 2008 của StoxPlus cũng xuất phát từ khủng hoảng. Nguyễn Quang Thuân kể lại: “Khách hàng đầu tiên là Công ty chứng khoán Thăng Long. Cơ hội đến khi thị trường xấu và các công ty chứng khoán phải cắt giảm chi phí, cho đội ngũ nhân viên xử lý dữ liệu nghỉ. Thế là StoxPlus có việc làm”.
Đang yên ổn với công việc thu nhập cao ở Australia, Nguyễn Quang Thuân vẫn bỏ về nước mở công ty giữa khủng hoảng 2008. Thuân cho rằng khủng hoảng chính là cơ hội thay đổi và “chơi lại ván cờ”.
Nguyễn Quang Thuân - CEO của StoxPlus - là một người luôn dám 'thử' và dám 'sai' để thành công. Ảnh: T.T.
Năm 2008, Nguyễn Quang Thuân và 2 người bạn (một người làm việc ở Bộ phát triển Vương quốc Anh, một người làm Phó giám đốc Quản lý Đầu tư của Lehman Brothers London) chia tay “đời làm thuê” để làm ông chủ. Thuân kể lại lý do mở Công ty Dữ liệu và Truyền thông Tài chính StoxPlus: “Cuối 2007, Chủ tịch Quỹ Vietnam Holding đưa tôi hàng nghìn USD để mua dữ liệu về các cổ phiếu được giao dịch tự do (free-float) ở Việt Nam mà không ai có. Cả 3 lại có nền tảng về tài chính và dữ liệu nên StoxPlus ra đời”.
Công ty ra đời vào tháng 3/2008, vài tháng trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall. Nhiều người thắc mắc tại sao vẫn anh vẫn cố mở StoxPlus khi ấy, Nguyễn Quang Thuân nói nửa đùa, nửa thật: “Chửa rồi thì phải đẻ thôi”.
Nếu cộng gộp thu nhập đi làm thuê của 3 người sáng lập, mỗi năm họ kiếm được hơn 250.000 USD. Trong khi đó, hơn một năm đầu tiên StoxPlus chưa thu về đồng doanh thu nào. Thế nhưng, họ không hề nản bởi theo Thuân: “Muốn đi xa thì phải đi từ từ”.
Anh kể, có những thời điểm khốn khó, làm mãi nhưng chưa ra tiền, các sáng lập viên vẫn phải đi làm thuê để có thu nhập: Lúc thì tham gia tư vấn, khi thì đi đào tạo, dạy thêm… “Không bao giờ sợ đói ăn, chỉ sợ không có khả năng tạo dựng một doanh nghiệp đúng nghĩa”, anh tâm sự.
Với StoxPlus, Thuân áp dụng biện pháp điều hành và kinh doanh “thử và sai”. CEO StoxPlus chia sẻ: “Phải đi thì mới biết đường, có khi thấy đường ở ngay dưới chân mình. Nếu không triển khai gì, mọi thứ sẽ ngồi im”. Thuân thẳng thắn: “Nếu vài năm nữa mà chúng tôi vẫn chưa đạt được những mục tiêu đề ra sẽ để cho người khác giỏi hơn vào kiểm soát và điều hành công ty”.
Sau gần 1 năm phát triển, StoxPlus đã có doanh số đều đều, đến nay đã có hơn 100 tổ chức trong và ngoài nước, hơn 1.000 khách hàng cá nhân, trong đó có Công ty chứng khoán Bản Việt, Chứng khoán Thăng Long... sử dụng phần mềm tài chính StoxPro và các dịch vụ dữ liệu của công ty.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội năm 1999, Nguyễn Quang Thuân vào làm việc cho PricewaterhouseCoopers - PwC Việt Nam. Được học bổng sang Australia học MBA, sau đó Thuân làm Chủ nhiệm Dịch vụ tài chính cho PwC Sydney. Trước khi về Việt Nam, Nguyễn Quang Thuân là chuyên viên phân tích đầu tư của Công ty Quản lý quỹ Vietnam Holding.
Năm 2011, thị trường tài chính khủng hoảng và kế hoạch doanh thu một triệu đôla ở năm thứ 3 hoạt động của StoxPlus chưa đạt được. Tuy nhiên, CEO StoxPlus vẫn cho rằng mình còn có rất nhiều “đất diễn”. Hiện nhiều công ty thay vì tự xử lý dữ liệu đã chấp nhận thuê bên ngoài vì chi phí rẻ hơn. Nhờ vậy mà những công ty phân tích dữ liệu, tài chính như StoxPlus được trọng dụng.
Hợp đồng đầu tiên trong những ngày “hàn vi” năm 2008 của StoxPlus cũng xuất phát từ khủng hoảng. Nguyễn Quang Thuân kể lại: “Khách hàng đầu tiên là Công ty chứng khoán Thăng Long. Cơ hội đến khi thị trường xấu và các công ty chứng khoán phải cắt giảm chi phí, cho đội ngũ nhân viên xử lý dữ liệu nghỉ. Thế là StoxPlus có việc làm”.
Lý giải về quyết định ký hợp đồng với StoxPlus thời điểm năm 2008, TS Quách Mạnh Hào - Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Thăng Long - cho biết: "Khi đó ở Việt Nam những công ty như StoxPlus không nhiều. Tuy nhiên, quan điểm của chúng tôi là nếu chọn nhà cung cấp, phân tích nước ngoài, họ sẽ không thể am hiểu chi tiết bằng nhà cung cấp địa phương. Đương nhiên là công ty chứng khoán nào cũng cần dữ liệu tốt, tin cậy".
Thuân chia sẻ, mô hình kinh doanh dữ liệu có nhiều tiềm năng. “Bởi dữ liệu bán xong cho một người thì vẫn cứ là dữ liệu và còn bán tiếp cho nhiều người khác được”, anh lý giải. Anh cho rằng mình đang kinh doanh trên những thông tin được công khai. Công việc chính là chuẩn hóa để những thông tin đó dùng được. Anh quan niệm: “Thông tin chỉ là thông tin đơn thuần và vô giá trị nếu nó vẫn ở dạng không dễ dàng tiếp cận được đối với người dùng”. Vì vậy, mục tiêu của anh cùng StoxPlus là biến nó trở nên hữu dụng nhất với nhà đầu tư.
Mặc dù đã chia tay thời đi “đánh thuê” vài năm nhưng Nguyễn Quang Thuân vẫn nhận mình là “worker” (nhân viên). Anh chia sẻ: “Chừng nào rảnh rang, chỉ việc đút tay túi quần mà vẫn có thu nhập cao mới dám là doanh nhân. Còn giờ, việc gì tôi cũng phải làm. Ngẩng cao đầu vẫn chưa thấy chỗ mình đến là đâu cả nên còn phải cố gắng nhiều”.
Sau nhiều năm làm dữ liệu, Tổng giám đốc StoxPlus cho biết cái vui của ngành này là thấy nhiều trường hợp một trang kết quả dữ liệu có giá trị hơn hàng trăm trang giấy phân tích, nghiên cứu suông. “Đôi khi, chúng tôi có đủ cơ sở để bác bỏ các kết luận vô căn cứ như giá nhà đất có thực sự giảm, lãi suất hợp lý là bao nhiêu? Bác nào muốn ‘chém gió’ với dân dữ liệu là phải cẩn thận”, Thuân tếu táo.
Chưa biết Nguyễn Quang Thuân “vui” cỡ nào nhưng ít nhất, anh đã bác bỏ được tư duy “cứ khủng hoảng là chết” bởi StoxPlus vẫn nhìn thấy những cơ hội, dù ít ỏi, trong khủng hoảng.

Tìm hiểu về việc triệu đô xây tổ yến

Hiện Hoàng Yến có 7 cửa hàng và nhà hàng tại TP.HCM, Hà Nội và Nha Trang với tốc độ phát triển bình quân 60%/năm. Cùng với tốc độ phát triển chung của thị trường, Hoàng Yến đang đẩy mạnh đầu tư theo hai hướng: xây dựng khu nuôi yến tập trung để tạo nguồn cung và phát triển hệ thống phân phối.
Thương vụ đặc biệt
Cuối tháng 5/2011, VinaCapital - một trong những công ty quản lý quỹ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam đã bất ngờ tuyên bố hợp tác với Công ty Cổ phần Yến Việt, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh sản phẩm yến sào.
Theo công bố này, VinaCapital sẽ bỏ ra 7,5 triệu USD để đầu tư vào Yến Việt, nhằm hỗ trợ Yến Việt củng cố các kênh phân phối, tăng cường năng lực sản xuất, phát triển sản phẩm cũng như cải thiện năng lực quản trị DN, tiến tới niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Trong thời điểm khó khăn này, việc đầu tư được xem là một thương vụ khá đặc biệt nhưng một quỹ nhạy bén như VinaCapital đã thấy cơ hội đầu tư. Bởi vì, thống kê cho thấy, năm 2010, thị trường yến sào trên thế giới lên tới 6,3 tỷ USD.
Theo phân tích của VinaCapital, về lợi thế quốc gia, yến sào Việt Nam được sản xuất với giá thành thấp hơn, nhưng chất lượng được coi là tốt nhất so với 4 nước sản xuất được yến sào trên thế giới là Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan.
Lợi thế này là lâu dài do đặc điểm về thời tiết thuận lợi và mức độ công nghiệp hóa của Việt Nam thấp hơn so với các nước lân cận. Hơn nữa, do hạn chế về nguồn nguyên liệu nên nhu cầu của ngành ngày đang vượt xa nguồn cung.
Và lợi thế này sẽ tiếp tục trong một tương lai vì sự tăng trưởng nhanh của nhu cầu người dân trong nước và trên thế giới trong khi nguồn cung bị giới hạn.
Theo đại diện của VinaCapital, có hai lý do để tập đoàn này đầu tư vào Yến Việt. Thứ nhất, ngành yến có tiềm năng tăng trưởng lớn về mặt thị trường. Thứ hai, Yến Việt có quy mô phù hợp để đầu tư và có nền tảng về thương hiệu tốt để kết hợp với nguồn lực về tài chính và con người của VinaCapital để hỗ trợ sự phát triển của DN.
Quy mô phù hợp mà VinaCapital nhắm đến đó là Yến Việt có 18 nhà nuôi yến với năng suất cao, phủ khắp từ Phú Yên đến Cà Mau, năng suất khai thác bình quân 2 tấn/năm và nhà máy chế biến yến sào tại Cụm Công nghiệp Thành Hải (Phan Rang) với công suất 5 triệu sản phẩm/năm. Nhà máy có tổng vốn đầu tư 4 triệu USD, đã hoàn thành giai đoạn 1 và đang triển khai giai đoạn 2.
Ngay sau khi nhận được sự đầu tư và hỗ trợ của VinaCapital, Yến Việt đã phát triển mạnh mẽ, chuyên nghiệp hơn trong một thị trường sôi động. Không chỉ chú trọng đẩy mạnh các kênh phân phối, tăng cường năng lực sản xuất, phát triển ra các thị trường nước ngoài như: Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore và các thị trường xuất khẩu trên toàn thế giới, Yến Việt còn quan tâm đến từng chi tiết của sản phẩm khi đến được tay người tiêu dùng.
Đại diện Công ty Yến Việt cho biết, hiện Yến Việt đã phát triển được một hệ thống bán hàng phân phối rộng khắp các tỉnh và thành phố lớn, cùng với mạng lưới khoảng 60 cửa hàng phân phối chính thức trên toàn quốc.
Sau khi được “bơm vốn”, thị phần và doanh thu của Yến Việt liên tục tăng trưởng qua mỗi tháng. Ngoài việc mở rộng hệ thống các cửa hàng đại lý chính thức, Công ty liên tục đưa ra các sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu về sức khỏe của người tiêu dùng. Trong đó, sản phẩm “Tổ yến chưng sẵn” của Công ty đã được thử nghiệm cho kết quả tốt.
Người “bay” theo yến
Khách hàng xem sản phẩm tại cửa hàng Hoàng Yến, Ảnh Thi Na
Cùng với việc đầu tư của VinaCapital vào Yến Việt, các DN sản xuất và kinh doanh yến tại Việt Nam cũng đều công bố mở rộng đầu tư. Không tiết lộ số nhà nuôi yến hiện có nhưng ông Lê Danh Hoàng, Giám đốc Công ty TNHH - TM - DV Chấn Hưng với thương hiệu yến sào Hoàng Yến, cho biết, đang tập trung mọi nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư.
Hiện Hoàng Yến có 7 cửa hàng và nhà hàng tại TP.HCM, Hà Nội và Nha Trang với tốc độ phát triển bình quân 60%/năm. Cùng với tốc độ phát triển chung của thị trường, Hoàng Yến đang đẩy mạnh đầu tư theo hai hướng: xây dựng khu nuôi yến tập trung để tạo nguồn cung và phát triển hệ thống phân phối.
Hiện hai khu nuôi yến tập trung (10 - 14 nhà nuôi yến) đang được Công ty xây dựng ở TP.HCM và Bình Phước. Trong 3 năm tới, Hoàng Yến sẽ có 35 điểm bán tại Hà Nội, TP.HCM và các thành phố lớn trong cả nước. Bên cạnh đó, Hoàng Yến cũng sẽ sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới phù hợp thị trường để kéo càng nhiều người tiêu dùng sử dụng sản phẩm yến.
Tương tự, Công ty Việt An, đơn vị sở hữu thương hiệu yến sào Thiên Hoàng, cũng tăng tốc đầu tư. Bà Phạm Thị Ngọc Yến, Giám đốc Điều hành thương hiệu yến sào Thiên Hoàng, cho biết, cách đây 5 tháng, Thiên Hoàng đã đưa ra thị trường sản phẩm nước yến dinh dưỡng.
Sản phẩm đã có mặt tại tất cả các hệ thống siêu thị trong cả nước cùng với 20 cửa hàng tại các tỉnh thành lớn. Tuy mới ra thị trường chưa đầy nửa năm nhưng sản phẩm này luôn trong tình trạng “đứt hàng”.
Với tín hiệu tốt này, Thiên Hoàng tiếp tục nghiên cứu sản xuất một sản phẩm dành cho phụ nữ vào đầu năm 2012. Cũng trong năm này, một loạt các sản phẩm thực phẩm bổ sung, thức ăn dinh dưỡng cho trẻ em... cũng sẽ được giới thiệu đến người tiêu dùng.
Bên cạnh nhu cầu trong nước, Thiên Hoàng cũng đã có nhiều đơn hàng của các đối tác Trung Quốc, Đài Loan nhưng vẫn chưa nhận vì chưa đủ nguồn hàng để cung ứng.
Tuy nhiên, lãnh đạo công ty này cho biết, trong vòng 2 năm nữa, sản phẩm Thiên Hoàng sẽ xuất hiện tại các nước Đông Nam Á và châu Âu. Song song với việc phát triển hệ thống phân phối, Thiên Hoàng cũng đang lên kế hoạch xây nhà máy tại TP.HCM để đưa ra thị trường nhiều sản phẩm mới với chất lượng cao hơn.
Các chuyên gia cho rằng, sở dĩ các DN đầu tư mạnh cho ngành này vì yến sào của Việt Nam đang “có giá” so với các nước khác cùng sản xuất mặt hàng này. Hiện giá yến tổ của Việt Nam khoảng 2.000 - 2.500 USD/kg, cao gấp đôi yến sào Malaysia nhưng vẫn không đủ hàng để bán, đặc biệt là tại thị trường Hồng Kông.
Tuy chất lượng tốt và “có giá” nhưng sản lượng yến sào của Việt Nam chỉ vào khoảng 10 tấn/năm, tương đương 10% so với các nước trong khu vực. Chính vì vậy, tận dụng mọi năng lực có thể để sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao là điều mà hầu hết các DN đều nhắm tới.
Do điều kiện về thời tiết, trên thế giới chỉ có 1 số quốc gia châu Á sản xuất được yến sào, trong đó có Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan.
Theo Cục Lương Nông Thế giới (FAO), tổng nhu cầu về yến sào đã vượt nhiều lần so với lượng cung hằng năm với tổng giá trị khoảng 6 - 7 tỷ USD và sẽ tăng lên 10 tỷ vào năm 2012. Đây sẽ là nguồn lợi không nhỏ cho các nước và các DN, trong đó có Việt Nam đang nhắm đến.

Vì sao lộc trời không dễ hái?

Tại các siêu thị, sản phẩm chế biến từ yến đang ngày càng phổ biến hơn. Thống kế của hệ thống siêu thị Big C cho thấy, có hai loại sản phẩm phổ biến: yến sào và yến nước. Trong đó, các sản phẩm yến sào có xu hướng phát triển, nhiều sự lựa chọn hơn với các thương hiệu Yến Việt, Thiên Hoàng, A1... nhưng chưa thật sự mạnh vì giá cao, thường để chăm sóc sức khỏe, làm quà biếu... chứ không phải là thức uống giải khát thông thường.
Bình dân hóa nhất phẩm
Giới thiệu yến Thiên Hoàng
Theo các DN, kinh doanh yến sào đang trở thành “mốt” và trào lưu không chỉ tại TP.HCM mà còn ở nhiều tỉnh thành lớn. Thống kê sơ bộ của các DN cho thấy, tại TP.HCM có khoảng 100 cửa hàng kinh doanh yến sào.
Ngoài số cửa hàng có thương hiệu như Khánh Hòa, Yến Việt, Hoàng Yến, Thiên Hoàng, Bảo Ngọc..., thị trường còn xuất hiện nhiều “tên tuổi” lạ theo kiểu: cứ có nhà yến, có sản phẩm là có treo bảng bán yến.
Đó là chưa kể số yến sào được bày bán ở các chợ lớn như Bến Thành, An Đông, Bình Tây. Bên cạnh đó, thị trường còn có sự góp mặt của các nhà hàng chuyên về các món ăn chế biến từ yến như Hoàng Yến, Song Yến... Do có nhiều loại cửa hàng giá bán của yến cũng khác nhau.
Chỉ riêng với yến tổ đã có nhiều loại với nhiều mức giá khác nhau, từ vài ba triệu đồng cho đến vài chục triệu đồng cho 100gr. Tuy nhiên, thông thường, người ta chia yến tổ ra hai loại: yến bạch và yến huyết. Trong các loại yến tổ thì yến huyết có giá cao nhất vì giá trị dinh dưỡng cao hơn.
Trên thị trường hiện nay, ngoài yến nhà, yến đảo, tại Việt Nam còn có yến sào nhập khẩu từ Malaysia, Thái Lan, Indonesia. So với yến sào Việt Nam, yến sào nhập khẩu chất lượng kém hơn, giá chỉ khoảng 1,5 – 2 triệu đồng/100g nhưng nguồn hàng dồi dào nên được nhiều DN, cửa hàng nhập về bán và giới thiệu là yến Việt.
Tại các siêu thị, sản phẩm chế biến từ yến đang ngày càng phổ biến hơn. Thống kế của hệ thống siêu thị Big C cho thấy, có hai loại sản phẩm phổ biến: yến sào và yến nước. Trong đó, các sản phẩm yến sào có xu hướng phát triển, nhiều sự lựa chọn hơn với các thương hiệu Yến Việt, Thiên Hoàng, A1... nhưng chưa thật sự mạnh vì giá cao, thường để chăm sóc sức khỏe, làm quà biếu... chứ không phải là thức uống giải khát thông thường.
Với các loại yến nước có xu hướng tăng, đặc biệt vào các dịp lễ, Tết tăng tốt hơn nữa do nhu cầu tiêu thụ trong các dịp này với bạn bè, gia đình... Nhìn chung, ngành hàng sản phẩm từ yến nhìn về lâu dài thì có tiềm năng phát triển rất tốt.
Bà Đặng Phạm Minh Loan, Phó giám đốc Điều hành VinaCapital, cho rằng, sở dĩ có phong trào kinh doanh yến sào vì “tiềm năng tăng trưởng của thị trường liên quan đến mức thu nhập bình quân của người Việt Nam đang tăng cao.
Hơn nữa, càng ngày người tiêu dùng càng chú ý hơn đến các sản phẩm thiên nhiên có lợi cho sức khỏe”. Cùng nhận định này, ông Lê Danh Hoàng, cũng cho rằng, ngành này sẽ rất phát triển trong tương lai, và hiện nay đang có xu hướng “bình dân hóa sản phẩm yến” khi giá sản phẩm yến đang giảm nhiều.
“Vàng trắng” chưa hóa vàng ròng
Tìm mua sản phẩm của Yến Việt - Ảnh: Quý Hòa
Tuy ngành kinh doanh yến đang tăng trưởng mạnh mẽ nhưng vẫn có những thách thức đáng kể. Theo bà Minh Loan, tổ yến là mặt hàng giá trị cao nên số lượng người tiêu dùng tổ yến thường xuyên không nhiều.
Mặt khác, do người tiêu dùng ngại mua phải yến giả nên thường chọn các thương hiệu nổi tiếng, trong khi giá thuê mặt bằng cao nên đối với các thương hiệu và cửa hàng mới việc có lời từ việc kinh doanh các cửa hàng yến sào là không dễ dàng.
Hiện nay, tổng lượng sản xuất yến sào ở Việt Nam còn thấp do tốc độ phát triển nhà yến còn thấp. Thống kê sơ bộ, cả nước có khoảng vài ngàn nhà nuôi yến. So với một nước có nguồn thu từ yến đứng thứ tư trên thế giới là Indonesia thì số nhà nuôi yến đã lên đến con số 200.000.
Hơn nữa, mức độ tiêu dùng yến tại Việt Nam còn rất thấp. Theo số liệu nghiên cứu thị trường của VinaCapital, hiện số người dùng yến tổ chỉ chiếm dưới 2% và yến lọ khoảng 6% trong tổng dân số.
Nhu cầu thì chưa nhiều nhưng vì nhà nhà bán yến, người người nuôi yến nên cạnh tranh ngày càng tăng. Và tình trạng hiện nay, theo ông Danh Hoàng là “có nhiều cửa hàng mở ra nhưng số cửa hàng đóng cửa cũng không ít”.
Hoàng Yến cũng từng mở nhà hàng hoành tráng trên đường Nguyễn Trãi nhưng sau một năm phải đóng cửa vì lỗ. Ông Hoàng thừa nhận, đó là sai lầm vì nhìn chưa đúng hướng nên sau 1 năm mở ra, nhà hàng này đã lấy đi của ông hơn 1 tỷ đồng.
Ngay cả trong lĩnh vực nuôi yến, không phải cứ có nhà yến là có sản phẩm để bán ra thị trường. Trong hơn 5 năm nuôi yến với nhiều nhà yến trên nhiều tỉnh thành, nhưng đến cách đây 3 tháng, Hoàng Yến mới có đủ nguồn cung để bán cho khách hàng.
Trước kia, khách hàng phải đặt hàng trước mới có. Hiện nay, nguồn yến sào trong nước vẫn chưa đủ để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Không bị thất bại về nhà hàng như Hoàng Yến như Thiên Hoàng lại khó khăn ở hướng khác. Do còn quá mới nên để có nước yến dinh dưỡng đưa ra thị trường, Thiên Hoàng đã mất thời gian khá lâu để nghiên cứu sản phẩm.
Và trong quá trình đó, nhiều mẻ yến chưng cất phải đổ bỏ vì không đạt như mong muốn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Thiên Hoàng mất một khoảng tiền không nhỏ.
Bà Minh Loan, cho rằng, để tồn tại bền vững trong ngành này là một thử thách lớn nếu không có sự đầu tư nghiêm túc vào chất lượng sản phẩm, thương hiệu, hệ thống cửa hàng và chất lượng dịch vụ.
Điều này yêu cầu DN phải có năng lực tài chính và một bộ máy con người có năng lực, kinh nghiệm và hiểu về ngành hàng tiêu dùng. Mặc dù hiện nguồn vốn nước ngoài từ các quỹ đầu tư DN tư nhân khá dồi dào, việc lựa chọn các DN Việt Nam trong ngành này để đầu tư là không dễ dàng do quy mô các DN còn quá nhỏ, phần lớn chưa phù hợp phạm vi đầu tư của các quỹ.